Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
Chân dung bốn mặt
Vương Tâm
Nguyễn Quang Thiều lúc nào cũng cuồn cuộn cảm
xúc, trong công việc hay cả khi ngồi im lặng với điếu thuốc, trong giây phút trầm
tư. Gương mặt anh hiện lên bốn phía trong làn khói thuốc bồng bềnh. Cặp mày rướn
lên và đôi mắt mở to muốn nhìn thấu những điều “Khuất khuất sau mây”, cả những tiếng “Âm âm trong gió”, cùng sắc mầu bay lên, trong không gian vô tận của
cơn mơ…
1-Thi sĩ của làng quê
Từ cách đây 26 năm, nói đến Thiều là nói
đến thơ, bởi ngay từ tập thơ đầu tiên “Ngôi nhà 17 tuổi” (XB năm 1990), đã lọt
vào chung kết Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1991). Đó là một sự kiện đáng
khích lệ cho dù tập thơ sau đó đã không được nhận giải. Nhưng có lẽ đó cũng là
một trải nghiệm đột biến khi Nguyễn Quang Thiều nhìn lại gương mặt thơ ban đầu
của mình. Đó là sự nhạt nhòa và pha trộn, một giọng nói của ai đó đã chen vào,
một ánh mắt khác lạ chợt hiện trong thơ mình. Thức tỉnh. Thiều muốn tìm lại
chính mình. Bản thánh ca trong tâm hồn được cất lên dẫn dụ trái tim. Đó là những
đêm thức trắng với cõi mơ mộng và diệu huyền của trí tưởng tượng. Dường như tất
cả những đề tài mà Thiều đã viết trước đó như ông bà, cha mẹ, đình chùa, con
sông, đồng cỏ, lúa khoai…đã được chiếu rọi với ngọn nguồn cảm xúc tươi mới và
được dát lên những vỏ ốc xù xì đầy cảm biến của con chữ cùng gió cát biển khơi.
Những thi ảnh dồn dập, xô táp làm lay động tâm hồn người đọc. Những ý tưởng bất
ngờ được nảy sinh, găm vào trí nhớ của người đọc những hình ảnh độc đáo, với nhịp
điệu “đảo phách”, ngưng ngắt khác lạ. Chính vì thế, tập thớ thứ hai của Nguyễn
Quang Thiều ra đời, sau đó chỉ một năm, đã gây chấn động làng thơ Việt Nam, với
cái tên “Sự mất ngủ của lửa” (NXB Lao Động-1992. Đúng vậy đó là sự thao thức của
ngọn lửa thơ mang tên Nguyễn Quang Thiều đã làm xáo động đường thơ và là ánh
sáng mới của thi ca, sau hàng chục năm ngủ li bì trong cơn sốt của “cảm xúc bao
cấp”. Ngay năm sau tập thơ đã được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1993).
Sự ảnh hưởng của thơ Thiều lạ lắm. Nó tạo
nên một trường phái, hay dòng thơ “Thiều”,
trong 25 năm qua. Nhất là các bạn làm thơ trẻ, họ thường đi tìm mình như Thiều
đã từng làm và họ cũng có những sáng tạo riêng và có những thành công nhất định.
Cho dù đến nay, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã cho xuất bản tới mười tập thơ (tập
sau cùng là “Châu thổ”-2012), nhưng người đọc vẫn luôn luôn nhớ tới cú đột phá
ban đầu của anh với “Sự mất ngủ của lửa”. Tiếp bước những miền “Châu thổ” thơ
sau này, Nguyễn Quang Thiều có những sự phát triển đường thơ của mình với góc
nhìn xuyên suốt: “Mục đích của bài thơ là
cố gắng lưu giữ lại cho người đọc cái khoảnh khắc của đời sống mà họ không bao
giờ tìm lại được nếu không có thơ” (Charles Simic-nhà thơ nổi tiếng người Mỹ);
Trọn đời thủy chung với không gian văn hóa làng quê trong sáng tạo nghệ thuật,
Nguyễn Quang Thiều cứ bóc hết lớp không gian này đến lớp khác, soi rọi quá
vãng, ký ức với con mắt mỹ cảm luôn luôn chuyển động, gây bất ngờ với bạn đọc.
Đó là những câu thơ lạ có chất tạo hình đồng thời ẩn chứa chất triết lý tự
sinh, trong các thi phẩm. Có thể kể đến như: “Bản tuyên ngôn của giấc mơ”, “Bài
ca trong đêm cuối cùng của năm cũ”, “Nhịp điệu châu thổ mới” hoặc còn đó là
“Sông Đáy”, “Mười một khúc cảm”, “Một bài hát của làng Chùa”, hoặc “Tiếng chó
và những ngôi sao”, “Chuyển động”, và “Cây ánh sáng”…Dường như cảm xúc chỉ là
cái cớ xuất phát cho mỗi ý tưởng, nhưng thế giới sáng tạo của Nguyễn Quang Thiều
lại nằm ở những thi ảnh chồng mờ kỳ lạ tuân thủ một ý tưởng tập trung. Tứ thơ
vì thế mà trở nên thâm sâu, tạo ấn tượng khó quên với người đọc.
Tác phẩm “Bài hát về cố hương” là một
trong những ví dụ điển hình thể hiện rõ hồn cốt, tâm linh của thi nhân. Anh hát
bài ca về làng chùa với sự mê man “Dưới
những vì sao ướt át. Và những ngọn gió hoang mê dại tìm về”. Đây đó những
hình ảnh đồng hiện “Tiếng nói mê đàn ông
trong mé tóc đàn bà”, hay “Những bầu
vú con gái tuổi mười lăm như những mầm cây đang nhoi lên khỏi đất”. Nhưng
tiếp sau đó là những chi tiết sinh động, gợi cảm: “Tiếng ho người già khúc khắc. Như những trái cây chín mê ngủ tuột khỏi
cành rơi xuống”. Cảm xúc mỗi lúc một dâng trào khi anh hát tiếp về cố
hương: “Bằng khúc ruột tôi đã chôn ở đó.
Nó không tiêu tan. Nó thành con giun đât. Bò âm thầm dưới vại nước, bờ ao. Bò
quằn quại qua khu mồ dòng họ. Bò qua bãi tha ma người làng chết đói. Đất đùn
lên máu chảy ròng ròng”. Đúng là một quê hương hiện lên nặng trĩu tấm lòng
thi nhân. Nhưng chưa hết, người con của làng vẫn còn hát khúc cuối đê mê hơn: “Tôi hát, hát về cố hương tôi. Trong những
chiếc tiểu sành đang xếp bên lò gốm. Một mai đây tôi sẽ nằm trong đó. Kiếp này
tôi là người. Kiếp sau phải là vật. Tôi xin ở kiếp sau làm một con chó nhỏ. Để
canh giữ nỗi buồn-báu vật cố hương tôi”. Một cảm xúc thật u buồn tê tái.
2-Những giấc mơ sắc màu
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều có khả năng
phân thân rạch ròi giữa những công việc khác nhau, báo chí, văn chương, thi ca
và hội họa. Đó là bốn lĩnh vực mà anh đều thành công và nổi tiếng với những tác
phẩm có giá trị. Nguyễn Quang Thiều luôn mơ ước: “Ta khao khát nhìn thấy ta trong vệt sáng cuối ngày hắt qua khe cửa”.
Khi đến với hội họa, hay những trang văn đầy thao thức cũng vậy. Ngoài làm báo để
thoát nợ mưu sinh, Nguyễn Quang Thiều còn nổi tiếng với những truyện ngắn tràn
đầy niềm thương cảm với cuộc đời. Song song với những khát vọng thơ ca, Nguyễn
Quang Thiều viết văn như một nhu cầu sáng tạo mang hoài bão chia sẻ với những số
phận đau khổ hay thiệt thòi trong cuộc đời. Sau khi xuất bản tập thơ đầu tiên,
anh cũng cho in liền hai tập tiểu thuyết “Vòng nguyệt quế cô đơn” (1991) và “Cỏ
hoang” (1992). Đặc biệt, cùng với sự bay bổng với “Sự mất ngủ của lửa” (NXB Lao
động-1992), thì tiếp ngay năm sau anh cho in tập tiểu thuyết thứ ba “Tiếng gọi
tình yêu” (1993); rồi liên tiếp anh say sưa với những câu chuyện rất gần gũi với
làng quê, anh cho in liên tục tập truyện ngắn “Người đàn bà tóc trắng” (1994)
và tiểu thuyết thứ tư “Kẻ ám sát cánh đồng” (1995). Chưa hết, cũng trong năm
1995 anh còn xuất bản tập thơ thứ ba “Những người đàn bà gánh nước sông”…Cứ thế
một mạch từ đó đến nay, bạn đọc đã đón cuốn sách thứ 40 của anh cả văn lẫn thơ.
Riêng năm 2016, anh đã được các nhà xuất bản cho in liền ba cuốn, gồm truyện và
bút ký. Cuốn ghi chép và chân dung “Trong căn phòng một người bài liệt” mới nhất
của anh vừa được NXB họp báo giới thiệu vào ngày 13-11-2016. Dường như tốc độ
anh làm việc đến nghẹt thở.
Ấy là chưa nói đến chuyện làm báo của
Nguyễn Quang Thiều. Anh là một biểu tượng cho dòng báo thị trường với phong
cách làm báo hiện đại, hấp dẫn bạn đọc ở chất nhân văn, trong từng bài báo viết
về thân phận con người. Người ta ví anh là ông bầu báo “lá cải” cũng có lý khi
có thời trong tay anh có tới bốn tờ báo. Có lần anh kể, cứ hai ngày phải ra một
số báo 32 trang. Mà trong tay anh khi đó chỉ có 7 người thực hiện. Ai cũng từng
biết anh là người đã thiết kế và trực tiếp thực hiện làm hai tờ bào An ninh thế
giới và Cảnh sát toàn cầu (số tháng), mở đầu cho dòng báo thị trường thu hút bạn
đọc. Riêng tờ Cảnh sát toàn cầu anh mới bàn giao lại cho đơn vị chủ quản là báo
Công an nhân dân vào đầu năm 2016. Nghĩ mà thấy chóng mặt vì sự xốc vác, bươn
trải của anh. Tôi cực kỳ ngạc nhiên bởi không biết anh thường được nghỉ ngơi
vào lúc nào với khối lượng công việc cuồn cuộn như thế. Vậy mà anh còn dành sức
để đến với hội họa. Thật kỳ lạ. Chẳng hề học vẽ một ngày nào. Anh bắt đầu quét
vết sơn dầu đầu tiên trên toan vào năm 2005.
Có lần tâm sự với tôi, anh nói mối lương
duyên với hội họa như trời đầy vậy, nhưng lại bị sắc màu cuốn hút. Có những đêm
thức trắng với bố cục và sắc màu. Vẽ rồi xóa, rồi lại vẽ, cứ quay cuồng với những
hình tượng chợt tới. Thiều vẽ cũng như làm thơ vậy, đó là cuộc dạo chơi kỳ ảo
nhất trong đời. Anh nói, với hội họa khi cầm cọ cũng phải chính là mình. Quả là
nhiều bản vẽ của anh đều do thơ ca mách bảo. Anh thể hiện lại những bài thơ của
mình bằng một ngôn ngữ mới trong một khung trời vuông thấm đẫm sắc màu và hình
tượng. Vậy nên tranh của Nguyễn Quang Thiều cũng nổi bật ở những mảng quê
hương. Đó là những “Cậu bé làng chùa”, “Sông Đáy”, “Hoa cải bên sông”, hay “Người
thổi sáo”, “Mười cô gái làng Chùa”…Sau 7 tháng theo nghiệp họa sĩ, “tự sướng” với
sắc mầu, Nguyễn Quang Thiều theo mọi người bày tranh và bán được gần hết. Bạn
bè bất ngờ. Nguyễn Quang Thiều cũng bất ngờ với chính mình. Anh kể có bức bán
được với giá cao nhất là 2000 USD. Đận ấy anh gom đủ tiền về sửa lại căn nhà cấp
bốn cho bố mẹ và lát lại cái ngõ ở làng Chùa quê anh. Mấy năm nay anh trở lại với
hội họa nhiều hơn, vẽ được khoảng 100 bức cả lớn và nhỏ. Nhà thơ ngộ ra, hội họa
mang lại cho mình tinh thần tự do tuyệt đối trong sáng tạo. Có lần anh vui vẻ
nói: “Tôi toàn quyền vẽ những gì tôi thích, dùng bất cứ màu gì tôi muốn và công
bố những tác phẩm không cần xin giấy phép”
3-Bình minh phía trước
Mấy năm nay, cứ vào dịp tết Nguyễn Quang
Thiều hay vẽ con giống của năm tặng bạn. Năm rồi anh có một bộ Khỉ (ba tranh) rất
lạ lùng. Theo sự đánh giá của họa sĩ Thành Chương thì tranh của Thiều đẹp nhất
trong các họa sĩ đã cùng vẽ khỉ trong năm. Tôi hỏi 2017, đúng năm tuổi của Thiều
(sinh năm 1957) có vẽ gà cho chính mình không. Anh cười gật đầu và nói đã có ý
vẽ những chú gà quê làng Chùa. Những tiếng nắng bừng lên trong âm thanh gà gáy
vang. Tôi nghĩ thế chắc vẽ gà phải hợp với Thiều với những cách điệu và sắc mầu
ở tuổi 60. Tôi chợt nhớ đến câu thơ rất hay về gà của Thiều trong khổ một của
“Mười một khúc cảm” rằng: “Ta khóc vụng một
ngày thưa bóng mẹ. Tiếng gà buồn mổ rỗ mặt hoàng hôn”
Dường như mỗi khổ thơ của Thiều là một bức
họa. Đó là những bức họa đồng quê thân thương, ruột thịt mà Thiều một đời trọng
tình, trọng nghĩa. Riêng có bức tranh trong bài thơ “Sông Đáy” làm tôi xúc động
mỗi khi nhớ đến. Anh viết: “Sông Đáy ơi,
sông Đáy ơi…chiều nay tôi trở lại. Mẹ tôi đã già như cát bên bờ. Ôi mùi cát
khô, mùi tóc của mẹ tôi. Tôi quỳ xuống vốc cát ấp vào mặt. Tôi khóc. Cát từ mặt
tôi chảy xuống dòng sông”. Đó là những cảm xúc lắng sâu của một tâm hồn thi
sĩ đích thực của quê hương. Với anh, tôi nghĩ ngả về phía nào cũng đầy ắp nỗi
niềm về thân phận con người. Kiếp người của làng Chùa. Kiếp phận tha hương của
những người anh bắt gặp trên đường đều làm trái tim anh rung động. Chính vì lẽ
đó, thơ anh không khi nào vơi cạn sự trăn trở, văn anh không bao giờ ngừng tuôn
trào nỗi niềm đắng cay, và sắc mầu anh luôn luôn u buồn, chia sẻ. Người ta nói
tranh anh thường ẩn giấu niềm hư ảo xa xôi và nỗi buồn về kiếp người. Đó là những
bông hoa “Thảo mưa” của riêng Thiều, trong những giấc mơ hiện lên, và bao giờ
cũng chan chứa vẻ đẹp thi ca.