Nhà văn Nguyễn Bình
Phương
Phiêu trên mặt trống đồng
Vương Tâm
Từ đâu đó, câu thơ “Có đứa trẻ chạm tay vào đấy. Bất chợt vang
lên một tiếng gầm. Gió và chim và giấc ngủ giật mình cùng tán loạn. Trên mặt trống
đồng, bay, trên mặt trống đồng” (Lam
chướng) cứ ám ảnh tôi mỗi khi chợt nhớ đến Nguyễn Bình Phương. Lại có người
nói muốn đọc được tiểu thuyết ma mị của Nguyễn Bình Phương hãy khởi đầu từ thơ
của anh. Và tôi đã bắt gặp “Bày ngựa phi
tím tái lưng trăng” (Canh Tý). Rất
phê.
Đường
dài mới biết ngựa hay
Ai cũng kêu sách của Nguyễn Bình
Phương rất khó đọc. Đến như nhà văn gạo cội Bảo Ninh cũng nói khi đọc “Mình và họ” của Nguyễn Bình Phương rằng:
“Là một tiểu thuyết rất không dễ đọc đối
với tôi, nó thách thức lối đọc văn học xưa giờ tôi vẫn quen”. Chính nhà văn
Nguyễn Bình Phương còn nói tiểu thuyết của anh rất kén người đọc. Nhưng theo
tôi đã đọc được vào mạch văn đậm nét liêu trai của anh thì ai cũng rất mê. Bởi
cách chơi cấu trúc tiểu thuyết của anh có những cung bậc khúc khuỷu nhưng nghệ
thuật kể chuyện lai rất hấp dẫn. Nhà văn Bảo Ninh sau khi kêu là khó đọc thì
ngay sau đó lại anh bộc bạch: “Song trang
này tiếp trang khác, trường đoạn này qua trường đoạn khác, “Mình và họ” hoàn
toàn chế ngự tôi…Một tiểu thuyết tuyệt vời đối với tôi từ đầu tới dòng chót
cùng”. Nhưng quả đọc sách của Nguyễn Bình Phương không dễ. Hồn ma bóng quỷ
luôn nhập vào những chương đoạn có yếu tố bất ngờ đã làm nhiều người giật mình.
Lại nhớ chính vì những hồn ma đó trong một truyện ngắn mà anh đã gặp tai nạn
văn chương đầu tiên. Và người không ai khác liên quan đến sự kiện lại là nhà
văn Bảo Ninh.
Nhớ lại ngày ấy, một lần Nguyễn Bình
Phương đạp xe đi lang thang vọt qua cổng báo Văn Nghệ ở 19 Trần Quốc Toản thì gặp
nhà văn Bảo Ninh gọi giật lại. Khi đó nhà văn Bảo Ninh đang biên tập truyện ngắn
cho tờ Văn nghệ trẻ. Anh hỏi Nguyễn Bình Phương có truyện ngắn nào đưa ngay để
chữa cháy cho một truyện ngắn vừa bị gác lại. Vậy là Nguyễn Bình Phương đưa
truyện ngắn “Đi”. Nhà văn Bảo Ninh
sau khi biên tập đã đưa duyệt. Báo in ra nhưng ngay lập tức có dư luân không
hay. Báo bị thu hồi. Nguyễn Bình Phương bị kiểm điểm (hồi còn làm ở NXB Quân đội
nhân dân VN). Một lần gặp Nguyễn Bình Phương tôi hỏi tai nạn đó xảy ra vào thời
gian nào thì chính anh không nhở cụ thể số báo (bị thu hồi) mà nói là vào năm
2000. Nhưng anh rất nhớ tin sét đánh đó ập đến đúng vào ngày mình cưới vợ. Sáng
ăn cưới tưng bừng. Chào đón khách rôm rả tràn ngập niềm vui. Thì ngay chiều hôm
đó ông giám đốc thông báo có tin không hay truyện ngắn “Đi” in trên Văn nghệ trẻ có vấn đề chính trị. Ai cũng nghĩ rằng
truyện của anh có nói đến hồn ma người chiến sĩ sau chiến trường trở về đi
trong ánh trăng huyền ảo nên bị nhắc nhở. Nhưng không phải, truyện ngắn “dính tội” chỉ bởi một câu nói đưa tiễn khi
người chiến sĩ lên đường. Câu nói bị suy diễn một cách trớ trêu vào thời điểm
chính trị quốc tế năm đó. Cả tuần trăng mật của anh bị chìm ngỉm trong những buổi
làm kiểm điểm và nhận kỷ luật. Đó là tai nạn nhớ đời về con ma đầu tiên của Nguyễn
Bình Phương trong văn chương. Biết sao được. Tai nạn từ trên trời rơi xuống. Bó
tay!
Chính vì hồn ma chiến sĩ mà tiểu thuyết
“Mình và họ” của anh cũng bị không
ít cac nhà xuất bản ở trong nước từ chối. Nguyễn Bình Phương nói anh viết xong
tác phẩm vào năm 2010 mời chào mãi mới có một nhà in bên Mỹ xuất bản (2011).
Nhưng tiểu thuyết đã đổi tên “Xe lên, xe
xuống”. Mãi tới ba năm sau NXB Trẻ đã mạnh dạn quyết định in với cái tên
chính thức “Mình và họ” (2014). Tuy
vậy sự lận đận của tiểu thuyết này cũng không sánh được với gian nan của tác phẩm
“Thoạt kỳ thủy”. Đó cũng là một kỷ lục
cho một tác phẩm bị tới hơn 20 NXB trong nước từ chối. Nguyễn Bình Phương tâm sự
thậm chí đưa xuống NXB Hải Phòng cũng bị trả lại. Vậy là dòng dã vòng quanh tới
9 năm mới được NXB HNV cho duyệt in năm
2004. Người biên tập là nhà văn Tạ Duy Anh. Vậy ra người ta vẫn sợ những va đập
của ma quái, điên và tội ác. Tiểu thuyết “Thoạt
kỳ thủy” tuy có sự gào thét của điên rồ hay chết lịm của mộng mị nhưng
không có những cái dữ dội và khốc liệt trong câu chuyện ma của “Mình và họ”.
Nguyễn Bình Phương có lần kể với tôi về
nguyên cớ khi viết “Mình và họ”. Đó
là câu chuyện về một tội ác của một cô gái trong đường dây buôn ma túy. Cô ta tên là Trang đã cho đổ xăng đốt lửa, giết chết
kẻ đồng lõa với mình vì nghi kỵ lẫn nhau. Vụ án này có thật trong bài viết trên
báo ANTG (phụ bản báo Công An nhân dân). Nguyễn Bình Phương nói nhìn ảnh cô Trang
đó rất xinh đẹp. Nhưng không ngờ dưới một nhan sắc xinh tươi ấy là ẩn chứa một
thú tính dữ tợn. Hành động bạo lực ấy được coi là một tương phản làm rung động
trái tim nhà văn. Nguyễn Bình Phương khai thác câu chuyện ở một cấp độ xã hội
sâu sắc. Anh kết hợp hai tuyến nhân vật với những câu chuyện đan chéo nhau đầy
kỳ dị. Một câu chuyện về chiến tranh hay tiễu phỉ xen lẫn vụ án thiêu xác người.
Chúng được kể trong một vòng của chuyến xe lên vùng rừng núi đông bắc. Khi đi
lên núi và khi xuống núi. Thời gian khép kín trong vòng vài ngày. Chuyến xe lên
với những hiện thực của những ký ức đan xen. Còn với chuyến đi xuống là sự ám ảnh
của một hồn ma cặp kè tham gia và câu chuyện.
Giữa hồn ma và người thật vờn nhau bổ
sung cho nhau thể hiện đúng góc nhìn của tác giả về bạo lực, tội ác và lương
tri của con người. Nghệ thuật kể chuyện của tác giả có nhiều cung bậc khi thì
ám ảnh đến ghê rợn và khi lại buồn tủi nghẹn ngào về thân phận con người. Bạo lực
và cái ác bị tác giả soi rọi và lên án dữ dội. Xung quanh những nhân vật như: “Chú”, “Cậu”, “Hắn”, “Anh” (anh của nhân vật Hiếu-hay xưng “mình” đậm đặc những sinh tử, oán hận và bạo lực. Nhà văn đã truy
tìm và rất lạnh lùng trong cách nhìn để miêu tả làm người đọc sôi sục và quặn
thắt cõi lòng. Chính vì góc nhìn sắc sảo và nghệ thuật “trình diễn sắp đặt” các tình huống và không khí lạnh lùng ma quái của
tác giả đã hấp dẫn người đọc. Thành công của tác giả đã đoạt giải thưởng của Hội
Nhà văn Hà Nội cho tác phẩm “Mình và họ”
(sách đã được tái bản năm 2019).
Xa
xăm gõ cửa
Thực ra nhà văn Nguyễn Bình Phương có lần
tự xác định mình còn là nhà thơ. Bởi anh tác phẩm văn học đầu tiên của anh là tập
thơ “Lam chướng” in năm 1992. Khi đó
anh vừa tròn 27 tuổi (sinh năm 1965 “Ất Tỵ”). Trong một bài thơ anh đã viết
ngày ra đời của mình đẫm chất hoang dã: “Con
rắn mào rời núi. Một chú bé ra đời cười sằng sặc. Lăn hai vòng. Rồi đi. Đêm ấy
gái làng nhìn trăng buồn rượi. Đêm ấy đám người điên. Khơi lên ngọn lửa hoang lạnh
lẽo. Đêm ấy những hàng cây đại thụ. Long rễ và héo rũ” (Khách của trần gian-Trường ca-1996).
Cho đến nay Nguyễn Bình Phương có tới 6 tập thơ bên cạnh 9 tiểu thuyết đã phát
hành. Bạn đọc đã đón nhận anh từ cả hai lĩnh vực. Dường như thơ đã phần nào phản
ánh từ sớm phong cách nghệ thuật văn chương của anh. Đó là tính huyền ảo trong
hình ảnh hiện thực thơ ca. Rất mơ màng phiêu du. Đậm chất kỳ bí. Đó là những
khúc ru: “Ngủ chưa người cái nhớ thắp đầy
sân. Cái nhớ đội tán sen vàng ngày hạ” (Lam Chướng).
Nhưng có lẽ tới tập thơ
“Buổi câu hững hờ” (2011) đoạt giải
thưởng Hội Nhà văn Hà Nội (2012), Nguyễn Bình Phương mới tỏ rõ chân dung thơ của
mình hơn. Đây là một trong ba giải thưởng văn học của anh. Chúng ta có thể gặp
37 thi phẩm của “Buổi câu hững hờ”
trong tuyển tập thơ Nguyễn Bình Phương (in năm 2014).
Nguyễn Bình Phương đã có lần tâm sự với
tôi về sự ảnh hưởng của thơ tới tiểu thuyết của chính anh. Đó là sự huyền ảo đậm
chất tâm linh. Thơ là thiền tự soi rọi lại bản thân và khám phá thế giới tâm hồn
mình. Chính vì thế có lần anh đã tự ngộ rằng: “Tôi từng nghĩ, trong cả thơ và văn của tôi dường như có một con ma nào
đó”. Hiện nay anh vẫn làm thơ và đặc biệt rất thuộc thơ mình cho dù đã viết
cách đây chừng 20 năm. Có lần tôi đố anh đọc hoàn chỉnh bài “Buổi câu hững hờ” rất trúc trắc và
ngưng ngắt liên tục. Không ngờ tôi chào thua khi theo dõi sách để kiểm tra văn
bản. Và cũng từ đó tôi thấy phê những câu thơ ảo diệu của anh như: “Con mắt câu giọt sương. Cái cây ấy long lanh
toàn mộng”. Hay những câu thơ đã găm vào trí nhớ của tôi: “Nước câu mặt trời. Mặt trời câu gió”; Hoặc
có đoạn khá mộng mị: “Người chán nản câu
cơn giông. Lũ trẻ online câu hy vọng…”. Toàn chữ bình dị những đã lập tứ tạo
hình ảo là thế.
Điều thú vị với những đề tài hoặc đầu
bài tưởng như rất nhẹ thậm chí đến đơn
giản như “Ngoài cuộc”, “Chào hàng”. “Không phân biệt” hay như “Phân
chim”, “Quanh quanh”, “Miêu tả những ngày mưa”…Nhưng tâm hồn
thi sĩ Nguyễn Bình Phương đã tạo nên cõi thơ riêng biệt. Đó là những cơn lên đồng
với thanh điệu “Văn” khắc khoải và say đắm. Đó là “giá đồng” mộng mị như: “Ngờ
như những lời ngang ngửa. Đã xanh rêu với u huyền. Những ánh bay ngọt lừ không
còn mùa đưa tiễn. Chiều ra ngả bóng
làm chi” (Bài thơ này đang ốm).
Nhà thơ đã biết khai thác từ những gì đơn giản nhất nhưng đều ẩn chứa tâm trạng
về nỗi đời: “Tôi cắt tóc. Buông lơi.
Khuôn mặt ngoài mùa hạ. Sau bức tường kia sự thật đã già” (Cắt tóc). Đặc biệt trong “Bài thơ cũ” bạn đọc lại thấy nét hiện đại
và tư duy nhân văn sâu sắc của Nguyễn Bình Phương. Anh viết: “Ta sinh ra cô đơn. Giờ cô đơn đã cũ. Ta trưởng
thành bởi sợ hãi. Sợ hãi cũng cũ rồi”. Hay nói về cuộc đời con người, anh
có những câu thơ trĩu nặng tâm tư: “Số phận
già như trời. Lọm khọm đi giữa công viên đầy nắng. Nắng có gì hay hớm nữa đâu”.
Dường như nhà thơ muốn kìm nén mọi cảm xúc tuôn trào mà chỉ kể và vẽ lên những
hình ảnh khắc sâu vào tâm trạng người đọc. Đúng như phong cách viết tiểu thuyết
của anh. Nguyễn Bình Phương muốn dành cho người đọc bước vào ma trận hình họa
mà hét lên và yêu ghét những gì trong thế giới hồn ma bóng quỷ của mình. Phải
chăng, đó chính là mục đích văn học của Nguyễn Bình Phương.
Vĩ
thanh
Những thành công của Nguyễn Bình
Phương đã thể hiện sự lao động nghiêm túc và hết sức coi trọng bạn đọc. Trong
không ít cuốn sách anh đã đề ngày viết và ngày hoàn thành cách nhau chừng vài
ba năm. Anh tâm sự thường một cuốn sách viết trong một năm thì phải sửa ít nhất
hai năm mới hoàn thành theo ý mình. Khi đó mới cho xuất bản. Thậm chí có cuốn
như “Kể xong rồi đi”, Nguyễn Bình
Phương phải sửa đến lần thứ tư. Nhiều phần phải dỡ ra viết lại. Tác phẩm trong 4
năm mới tới tay bạn đọc. Anh cho tôi xem một số bản thảo viết tay khoảng đầu thập
kỷ 90 mới thấy đáng nể trọng. Trang nào cũng chữa dầy đặc những nét mực xanh mực
đỏ. Gần như chương đoạn nào đọc lên chưa sướng tai, không nhập hình trong liên
tưởng là anh viết lại. Chữ của anh luôn tạo hình như thơ là vì vậy. Câu văn của
Nguyễn Bình Phương cũng ngắn gọn như thơ chứ ít khi dùng nhiều mệnh đề. Hệt như
những câu thơ cô đọng: “Hai đứa trẻ vò
tai tôi sung sướng. Ngân nga ba đứa ba quả chuông” (Chơi với con).
Chính vì thế trong “Mình và họ” nhà văn đã dành cho những
câu đối thoại, độc thoại tự bật ra tính
cách nhân vật hay tình huống của câu chuyện trong chuyến xe lên, xe xuống. Bởi
hồn ma đâu có nói dài mà buông vào cõi hư vô với những oán hờn, dận giữ và đau
khổ vì tội ác. Tôi chợt nhớ đến những câu thơ thú vị đẫm chất văn xuôi mà ta đã
gặp ở đâu đó trong bất kỳ tiểu thuyết nào của Nguyễn Bình Phương. Khi anh viết:
“Họ nhổ nước bọt lên buồn đau, họ di chân
vào hy vọng. Họ ăn nhẩn nha, nói nhẩn nha làm tình thì hối hả vì họ biết không ở
đây được nữa” (Những cư dân vùng châu
thổ sông Hồng”. Và đọng lại trong tôi những câu thơ đã hóa thạch của anh: “Trong thanh gươm đã có sẵn nụ cười. Trong những
nụ cười vô vàn gươm sắc” (Tượng đá cầm
gươm). Tôi đã hình dung Nguyễn Bình Phương chính là một thanh gươm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét