Thứ Ba, 18 tháng 5, 2021

 

       Chợt gặp em trong phách mộng, trống mê

 

Vương Tâm

 

        Tôi với NSƯT Bạch Vân quen nhau từ 30 năm nay. Hồi chị là nhân viên Sở VHTT &DL Hà Hội (Sở VH,TT) hay sang báo Hà Nội mới nơi tôi làm việc để đăng tin về hoạt động phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng. Bạch Vân có năng khiếu viết báo từ lâu nên hay cộng tác. Nhưng có điều bao giờ tôi cũng được chị kéo ra hành lang hát tặng một câu ca trù mới học được. Giọng chị lạ lắm ngân vang bay bổng và đẹp như nắng sớm trải tấm lụa vàng trên bãi cỏ non.

 


Bần thần một cõi bơ vơ

 

          Sau ngày giải phóng Thủ đô các tụ điểm hát cô đầu bị cấm (1954). Ca trù dần rơi vào quên lãng. Nói đến hát cô đầu người ta đều nhìn mặt trái của nó trong hoạt động phía sau. Đó là những tệ nạn xẩy ra từ những cô đầu rượu. Riêng các cô đầu hát lại thuộc đẳng cấp khác. Quan khách đến họ hát theo yêu cầu và nhận những đồng bạc ít ỏi. Xong một đêm lại ra về nhà. Nhưng thiên hạ biết đâu khi nói đến hát ca trù là nói đến hát cô đầu họ đều miệt thị. Thời gian trôi đi vài chục năm ròng. Những dẫy nhà hát cô đầu cũng bị xóa sạch bong. Nhất là sau khi Khâm Thiên bị giặc Mỹ bom B52 (12-1972) làm tan nát không còn dấu vết gì của thập niên 50 hay 60. Nghiệp hát cô đầu coi như bị chôn vùi sâu ba tấc đất.

 

        Ấy vậy mà, Bạch Vân đã mạnh dạn đề nghị Sở VH cho thành lập Câu lạc bộ Ca trù (vào đầu năm 1990). Bạch Vân có bàn thuyết trình sự bảo tồn nghệ thuật ca trù truyền thống của dân tộc rất hay. Khi đó tôi là người được đọc những dòng chữ nóng hổi và ẩn chứa say mê bất thường đó của Bạch Vân. Lúc ấy tôi mới hay Bạch Vân đã từng là một ca sĩ (thuộc Đoàn ca múa Nghệ An) được đào tạo bài bản ở Trường VHNT Nghệ An và Khoa thanh nhạc (Trường Âm nhạc Việt Nam nay là Nhạc viện Hà Nội). Giọng hát của Bạch Vân có màu sắc an tô riêng biệt và hiếm hoi vào thập kỷ 80. Chị tốt nghiệp Đại học Văn hóa, khoa Văn hóa quần chúng, chuyên ban Âm nhạc năm 1981. Chị dược các trường nghệ thuật miền Nam xin, đặc biệt là Gia Lai - Kon Tum với đề nghị của GĐ Sở VHTT Ngụy Như Kon Tum  Nhưng rồi chỉ một lần nghe nghệ nhân Quách Thị Hồ hát trên đài phát thanh thế là Bạch Vân đổi hướng. Trong ký ức thơ ấu của mình, Bạch Vân luôn nhớ rằng mẹ mình chính là người hát dân ca lẩy Kiều, ngâm thơ cổ, ví dặm rất hay. Đất quê Thanh Chương của chị cũng là nơi sản sinh những bài ca trù cổ. Từ đó Bạch Vân càng đam mê dòng âm nhạc này. Chị bắt đầu học hành bài bản từ đầu. Một công trình nghiên cứu về ca trù được khởi thảo từ năm 1982. Đến năm 1986, Bạch Vân về Sở VH làm việc cũng chỉ với mục địch hoạt động phong trào và tiếp tục học hát ca trù trong dân gian. Một mình thầm lặng và trăn trở với hồn phách tơ vương: "Hồng Hồng, Tuyết Tuyết/ Mới ngày nào còn chưa biết cái chi chi/ Mười lăm năm thấm thoát có xa gì/ Ngoảnh mặt lại đã tới thì tơ liễu..."

 

 Lận đận đời ca nương

 

         Đúng là "Mười lăm năm thấm thoát có xa gì", Bạch Vân nguyện ước trở thành ca nương và ngày đêm luyện tập. Câu chuyện ngỡ như đã lỡ nhịp khi chị bắt đầu sự nghiệp ở gần tuổi 30. Nhưng sẵn có giọng hát hay và đào tạo cơ bản, Bạch Vân dấn thân mày mò tầm sư học đạo. Ngẫm lại quãng đường gian truân khởi nghiệp cho đên nay chị không khỏi xúc động. Chị giật mình vì thời gian qua mau. Không còn lưu giữ được chút xao xuyến riêng tư trong đời người con gái. Bạch Vân bắt đầu hành trình hết sức gian nan của mình. Đúng là những lần đi gặp các nghệ nhân của Hà thành xưa đều bị từ chối. Thậm chí họ còn sợ sệt vì muốn tránh cái tiếng cô đầu xấu xa ám ảnh một thời. 

 

          Đó là những ngày Bạch Vân phải đi xe đạp xuống cơ sở và gặp gỡ những ca nương để học từng câu hát. Có người thương Bạch Vân thì dây cho vài ba câu. Thậm chí cả năm trời Bạch Vân mới học được một bài. Cứ học truyền miệng thế chẳng có văn bản hay khuông nhạc để tự mày mò. Bạch Vân đi khắp chốn tìm thầy. Nào lận đận Lỗ Khê, Quốc Oai. Khi lại tất tả Từ Liêm, Thạch Thất. Rồi mải miết đạp xe lên Bắc Ninh, ra Hải Phòng và quay về Hải Dương, đi xe máy vào Thanh Hóa,  Nghệ An, Hà Tĩnh… Cứ ở đâu có nghệ nhân hay giáo phường ca trù là chị đến. Bạch Vân nằn nì học từng câu ca nhỏ lẻ, những luyến láy rung hơi của mỗi nghệ nhân để tìm hiểu, so sánh.., vận động cácnghệ nhân trở lại nghề, đào tạo thế hệ trẻ.

 

        Đặc biệt Bạch Vân đã theo nghệ nhân Quách Thị Hồ trong bốn năm trời để mong được học một chút kỹ thuật cũng được. Giọng hát cùa Bạch Vân đã ám thị âm hưởng thanh thoát và đổ hột làm mê hoặc lòng người. Hơn nữa chị còn được cụ  Chu Văn Du, người chơi đàn đáy nổi tiếng ở Hưng Yên, phó quản ca giáo phường Khâm Thiên dậy trong ba năm về các thể cách cơ bản. Khi lên sân khấu biểu diễn lần đầu tiên, Bạch Vân đã trải qua một chặng đường khủng khiếp kéo dài cả chục năm trời. Mãi cho đến năm 1991, CLB Ca trù Hà Nội của chị mới được ra đời. Nơi hát ra mắt đầu tiên của CLB ở Quốc Từ Giám sau đó về hát cố định tại Bích Câu đạo quán. Chị đã cần mẫn theo bà Phó Thị Kim Đức ngay từ năm 1986 để thuyết phục bà trở lại nghề và dạy nhưng thử thách 3 năm có đức mới dạy 1 bài, 5 năm có đức dạy tiếp 2 bài.

 

. Ngay lập tức giọng hát Bạch Vân nổi lên như một hiện tượng. Đó là một ca nương đích danh. Những bài hát của các nho sĩ và nhà thơ nổi tiếng như: Dương Khuê,CaoBáQuát,NguyễnCôngTrứ,Tản Đà,Chu Manh Trinh,Nguyễn Khuyến...đều được thể hiện với sắc thái mới qua giọng hát Bạch Vân.

 

         Bạch Vân một mình lầm lụi tiến từng bước trong sự nghiệp gìn giữ văn hóa giáo phường ca trù ở Hà Nội. Đây là một tiền đề cho phong trào thành lập các CLB ca trù ở nhiều nơi. Giọng hát của Bạch Vân được phát huy tối ưu trong nghệ thuật hát ca trù. Kỹ thuật cộng với nội lực của chị hòa tan trong những câu ca cao vút bay bổng cao sang. Mỗi lời ca như vận vào đời mình. Hát bằng trái tim rung động mãnh liệt. Chị hát bằng cả trường đời lận đận cô đơn. Quên ngày, quên tháng sống trong mộng ước và tâm trạng thấm đẫm nỗi đau nhân sinh. Liên tiếp những năm này Bạch Vân đoạt những giải cao trong các cuộc thi: HCB hát dân ca (1988); Giải nhất giọng hát hay ca trù (1992); HCB thi Đơn ca chuyên nghiệp TQ năm 1992; đặc biệt Giải nghệ sĩ tài năng xuất sắc năm 1995… Ngoài ra Bạch Vân còn làm phim và tham gia hát ca trù cho các phim như: " Chợt nghe tiếng hát ca trù", đồng tác giả và cố vấn cho phim” Thể phách ca trù “ đạt giải HCB Liên hoan Phim truyền hình TQ 2004, cố vấn và tham gia chính trong phim” Lạt mềm buộc chặt”giải nhất Phim ngắn 2005."Trò đời" .. Bạch Vân được nhân danh hiệu Nghệ nhân và NSƯT (năm 2012).

 


Nặng nợ tang bồng

 

       Nay ca nương Bạch Vân vẫn một mình một bóng ở tuổi "Lục thập hoa giáp". Trong ngôi nhà nhỏ bé ngày nào, chị đang chuẩn bị công trình nghiên cứu để bào về luận án tiến sĩ. Cuốn sách đã xuất bản trước đó "Đào nương và nghệ thuật hát ca trù" (NXB HN-2019) của Bạch Vân là thành quả bảo vệ thành công luận án thạc sĩ (2004). Đây là một tác phẩm nghiên cứu sâu sắc về đào nương và nghệ thuật ca trù duy nhất hiện nay. Cuốn sách như tổng kết cuộc đời đeo đuổi nghiệp dựng ca trù ở Thủ đô. Nội dung cuốn sách được trình bày khoa học theo từng chương mục cho những người muốn theo đuổi nghề hát ca trù. Nó còn gói ghém cả sự diễn giải tinh tế về khuôn mẫu âm nhạc trong kỹ thuật trình bày lời ca. Bởi ai cũng biết ca trù là một bộ môn nghệ thuật bác học trong ngôn ngữ âm nhạc và lời ca. Chính vì thế tác phẩm của NSƯT Bạch Vân đã được Hội Nhạc sỹ VN trao giải B thể loại sách (không có giải A) năm 2020.

 

        Giọng hát của Bạch Vân vượt thời gian. Hiện nay chị thường xuyên tham gia đào tạo giảng dậy hát ca trù. Sau khi rời địa điểm về hát tại đình Kim Ngân (42 Hàng Bạc), CLB Ca trù Hà Nội tạo nên một địa chỉ văn hóa sâu rộng. Tôi chợt nhớ có đêm Bạch Vân hát đến tận 2 giờ sáng để phục vụ khách. Giọng hát của Bạch Vân có sức thu hút lạ thường. Những âm sắc gợi cho du khách những niềm ẩn ức mà bấy lâu nay giữ kín. Đó là sự giải tỏa trong những bài thơ "Tỳ bà hành", "Hỏi gió", "Thét nhạc" hay "Chơi xuân kẻo hết xuân đi", hoặc "Trần ai ai dễ biết ai"...Nửa đêm về sáng Bạch Vân lầm lũi về nhà trong sự mệt mỏi rã rời. Chị thiếp đi trong cơn mơ tay gõ phách và miệng vẫn cất lời ca về những nỗi niềm buồn tủi của thân phận mà Nguyễn Công Trứ đã gieo vào tâm hồn bấy lâu nay rằng: "Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo/ Giữa trời vách đá cheo leo/ Ai mà chịu rét thì trèo với thông"!

 

--

 



Nhà văn Nguyễn Bình Phương

                   Phiêu trên mặt trống đồng

Vương Tâm

        Từ đâu đó, câu thơ “Có đứa trẻ chạm tay vào đấy. Bất chợt vang lên một tiếng gầm. Gió và chim và giấc ngủ giật mình cùng tán loạn. Trên mặt trống đồng, bay, trên mặt trống đồng” (Lam chướng) cứ ám ảnh tôi mỗi khi chợt nhớ đến Nguyễn Bình Phương. Lại có người nói muốn đọc được tiểu thuyết ma mị của Nguyễn Bình Phương hãy khởi đầu từ thơ của anh. Và tôi đã bắt gặp “Bày ngựa phi tím tái lưng trăng” (Canh Tý). Rất phê.

Đường dài mới biết ngựa hay

         Ai cũng kêu sách của Nguyễn Bình Phương rất khó đọc. Đến như nhà văn gạo cội Bảo Ninh cũng nói khi đọc “Mình và họ” của Nguyễn Bình Phương rằng: “Là một tiểu thuyết rất không dễ đọc đối với tôi, nó thách thức lối đọc văn học xưa giờ tôi vẫn quen”. Chính nhà văn Nguyễn Bình Phương còn nói tiểu thuyết của anh rất kén người đọc. Nhưng theo tôi đã đọc được vào mạch văn đậm nét liêu trai của anh thì ai cũng rất mê. Bởi cách chơi cấu trúc tiểu thuyết của anh có những cung bậc khúc khuỷu nhưng nghệ thuật kể chuyện lai rất hấp dẫn. Nhà văn Bảo Ninh sau khi kêu là khó đọc thì ngay sau đó lại anh bộc bạch: “Song trang này tiếp trang khác, trường đoạn này qua trường đoạn khác, “Mình và họ” hoàn toàn chế ngự tôi…Một tiểu thuyết tuyệt vời đối với tôi từ đầu tới dòng chót cùng”. Nhưng quả đọc sách của Nguyễn Bình Phương không dễ. Hồn ma bóng quỷ luôn nhập vào những chương đoạn có yếu tố bất ngờ đã làm nhiều người giật mình. Lại nhớ chính vì những hồn ma đó trong một truyện ngắn mà anh đã gặp tai nạn văn chương đầu tiên. Và người không ai khác liên quan đến sự kiện lại là nhà văn Bảo Ninh.

        Nhớ lại ngày ấy, một lần Nguyễn Bình Phương đạp xe đi lang thang vọt qua cổng báo Văn Nghệ ở 19 Trần Quốc Toản thì gặp nhà văn Bảo Ninh gọi giật lại. Khi đó nhà văn Bảo Ninh đang biên tập truyện ngắn cho tờ Văn nghệ trẻ. Anh hỏi Nguyễn Bình Phương có truyện ngắn nào đưa ngay để chữa cháy cho một truyện ngắn vừa bị gác lại. Vậy là Nguyễn Bình Phương đưa truyện ngắn “Đi”. Nhà văn Bảo Ninh sau khi biên tập đã đưa duyệt. Báo in ra nhưng ngay lập tức có dư luân không hay. Báo bị thu hồi. Nguyễn Bình Phương bị kiểm điểm (hồi còn làm ở NXB Quân đội nhân dân VN). Một lần gặp Nguyễn Bình Phương tôi hỏi tai nạn đó xảy ra vào thời gian nào thì chính anh không nhở cụ thể số báo (bị thu hồi) mà nói là vào năm 2000. Nhưng anh rất nhớ tin sét đánh đó ập đến đúng vào ngày mình cưới vợ. Sáng ăn cưới tưng bừng. Chào đón khách rôm rả tràn ngập niềm vui. Thì ngay chiều hôm đó ông giám đốc thông báo có tin không hay truyện ngắn “Đi” in trên Văn nghệ trẻ có vấn đề chính trị. Ai cũng nghĩ rằng truyện của anh có nói đến hồn ma người chiến sĩ sau chiến trường trở về đi trong ánh trăng huyền ảo nên bị nhắc nhở. Nhưng không phải, truyện ngắn “dính tội” chỉ bởi một câu nói đưa tiễn khi người chiến sĩ lên đường. Câu nói bị suy diễn một cách trớ trêu vào thời điểm chính trị quốc tế năm đó. Cả tuần trăng mật của anh bị chìm ngỉm trong những buổi làm kiểm điểm và nhận kỷ luật. Đó là tai nạn nhớ đời về con ma đầu tiên của Nguyễn Bình Phương trong văn chương. Biết sao được. Tai nạn từ trên trời rơi xuống. Bó tay!

       Chính vì hồn ma chiến sĩ mà tiểu thuyết “Mình và họ” của anh cũng bị không ít cac nhà xuất bản ở trong nước từ chối. Nguyễn Bình Phương nói anh viết xong tác phẩm vào năm 2010 mời chào mãi mới có một nhà in bên Mỹ xuất bản (2011). Nhưng tiểu thuyết đã đổi tên “Xe lên, xe xuống”. Mãi tới ba năm sau NXB Trẻ đã mạnh dạn quyết định in với cái tên chính thức “Mình và họ” (2014). Tuy vậy sự lận đận của tiểu thuyết này cũng không sánh được với gian nan của tác phẩm “Thoạt kỳ thủy”. Đó cũng là một kỷ lục cho một tác phẩm bị tới hơn 20 NXB trong nước từ chối. Nguyễn Bình Phương tâm sự thậm chí đưa xuống NXB Hải Phòng cũng bị trả lại. Vậy là dòng dã vòng quanh tới 9 năm mới được NXB HNV cho duyệt in  năm 2004. Người biên tập là nhà văn Tạ Duy Anh. Vậy ra người ta vẫn sợ những va đập của ma quái, điên và tội ác. Tiểu thuyết “Thoạt kỳ thủy” tuy có sự gào thét của điên rồ hay chết lịm của mộng mị nhưng không có những cái dữ dội và khốc liệt trong câu chuyện ma của “Mình và họ”.

        Nguyễn Bình Phương có lần kể với tôi về nguyên cớ khi viết “Mình và họ”. Đó là câu chuyện về một tội ác của một cô gái trong đường dây buôn ma túy. Cô ta  tên là Trang đã cho đổ xăng đốt lửa, giết chết kẻ đồng lõa với mình vì nghi kỵ lẫn nhau. Vụ án này có thật trong bài viết trên báo ANTG (phụ bản báo Công An nhân dân). Nguyễn Bình Phương nói nhìn ảnh cô Trang đó rất xinh đẹp. Nhưng không ngờ dưới một nhan sắc xinh tươi ấy là ẩn chứa một thú tính dữ tợn. Hành động bạo lực ấy được coi là một tương phản làm rung động trái tim nhà văn. Nguyễn Bình Phương khai thác câu chuyện ở một cấp độ xã hội sâu sắc. Anh kết hợp hai tuyến nhân vật với những câu chuyện đan chéo nhau đầy kỳ dị. Một câu chuyện về chiến tranh hay tiễu phỉ xen lẫn vụ án thiêu xác người. Chúng được kể trong một vòng của chuyến xe lên vùng rừng núi đông bắc. Khi đi lên núi và khi xuống núi. Thời gian khép kín trong vòng vài ngày. Chuyến xe lên với những hiện thực của những ký ức đan xen. Còn với chuyến đi xuống là sự ám ảnh của một hồn ma cặp kè tham gia và câu chuyện.

       Giữa hồn ma và người thật vờn nhau bổ sung cho nhau thể hiện đúng góc nhìn của tác giả về bạo lực, tội ác và lương tri của con người. Nghệ thuật kể chuyện của tác giả có nhiều cung bậc khi thì ám ảnh đến ghê rợn và khi lại buồn tủi nghẹn ngào về thân phận con người. Bạo lực và cái ác bị tác giả soi rọi và lên án dữ dội. Xung quanh những nhân vật như: “Chú”, “Cậu”, “Hắn”, “Anh” (anh của nhân vật Hiếu-hay xưng “mình” đậm đặc những sinh tử, oán hận và bạo lực. Nhà văn đã truy tìm và rất lạnh lùng trong cách nhìn để miêu tả làm người đọc sôi sục và quặn thắt cõi lòng. Chính vì góc nhìn sắc sảo và nghệ thuật “trình diễn sắp đặt” các tình huống và không khí lạnh lùng ma quái của tác giả đã hấp dẫn người đọc. Thành công của tác giả đã đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội cho tác phẩm “Mình và họ” (sách đã được tái bản năm 2019).

Xa xăm gõ cửa

     Thực ra nhà văn Nguyễn Bình Phương có lần tự xác định mình còn là nhà thơ. Bởi anh tác phẩm văn học đầu tiên của anh là tập thơ “Lam chướng” in năm 1992. Khi đó anh vừa tròn 27 tuổi (sinh năm 1965 “Ất Tỵ”). Trong một bài thơ anh đã viết ngày ra đời của mình đẫm chất hoang dã: “Con rắn mào rời núi. Một chú bé ra đời cười sằng sặc. Lăn hai vòng. Rồi đi. Đêm ấy gái làng nhìn trăng buồn rượi. Đêm ấy đám người điên. Khơi lên ngọn lửa hoang lạnh lẽo. Đêm ấy những hàng cây đại thụ. Long rễ và héo rũ” (Khách của trần gian-Trường ca-1996). Cho đến nay Nguyễn Bình Phương có tới 6 tập thơ bên cạnh 9 tiểu thuyết đã phát hành. Bạn đọc đã đón nhận anh từ cả hai lĩnh vực. Dường như thơ đã phần nào phản ánh từ sớm phong cách nghệ thuật văn chương của anh. Đó là tính huyền ảo trong hình ảnh hiện thực thơ ca. Rất mơ màng phiêu du. Đậm chất kỳ bí. Đó là những khúc ru: “Ngủ chưa người cái nhớ thắp đầy sân. Cái nhớ đội tán sen vàng ngày hạ” (Lam Chướng).

Nhưng có lẽ tới tập thơ “Buổi câu hững hờ” (2011) đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội (2012), Nguyễn Bình Phương mới tỏ rõ chân dung thơ của mình hơn. Đây là một trong ba giải thưởng văn học của anh. Chúng ta có thể gặp 37 thi phẩm của “Buổi câu hững hờ” trong tuyển tập thơ Nguyễn Bình Phương (in năm 2014).

      Nguyễn Bình Phương đã có lần tâm sự với tôi về sự ảnh hưởng của thơ tới tiểu thuyết của chính anh. Đó là sự huyền ảo đậm chất tâm linh. Thơ là thiền tự soi rọi lại bản thân và khám phá thế giới tâm hồn mình. Chính vì thế có lần anh đã tự ngộ rằng: “Tôi từng nghĩ, trong cả thơ và văn của tôi dường như có một con ma nào đó”. Hiện nay anh vẫn làm thơ và đặc biệt rất thuộc thơ mình cho dù đã viết cách đây chừng 20 năm. Có lần tôi đố anh đọc hoàn chỉnh bài “Buổi câu hững hờ” rất trúc trắc và ngưng ngắt liên tục. Không ngờ tôi chào thua khi theo dõi sách để kiểm tra văn bản. Và cũng từ đó tôi thấy phê những câu thơ ảo diệu của anh như: “Con mắt câu giọt sương. Cái cây ấy long lanh toàn mộng”. Hay những câu thơ đã găm vào trí nhớ của tôi: “Nước câu mặt trời. Mặt trời câu gió”; Hoặc có đoạn khá mộng mị: “Người chán nản câu cơn giông. Lũ trẻ online câu hy vọng…”. Toàn chữ bình dị những đã lập tứ tạo hình ảo là thế.

       Điều thú vị với những đề tài hoặc đầu bài tưởng như rất nhẹ thậm chí đến đơn  giản như “Ngoài cuộc”, “Chào hàng”. “Không phân biệt” hay như “Phân chim”, “Quanh quanh”, “Miêu tả những ngày mưa”…Nhưng tâm hồn thi sĩ Nguyễn Bình Phương đã tạo nên cõi thơ riêng biệt. Đó là những cơn lên đồng với thanh điệu “Văn” khắc khoải và say đắm. Đó là “giá đồng” mộng mị như: “Ngờ như những lời ngang ngửa. Đã xanh rêu với u huyền. Những ánh bay ngọt lừ không còn mùa đưa tiễn. Chiều ra ngả bóng làm chi” (Bài thơ này đang ốm). Nhà thơ đã biết khai thác từ những gì đơn giản nhất nhưng đều ẩn chứa tâm trạng về nỗi đời: “Tôi cắt tóc. Buông lơi. Khuôn mặt ngoài mùa hạ. Sau bức tường kia sự thật đã già” (Cắt tóc). Đặc biệt trong “Bài thơ cũ” bạn đọc lại thấy nét hiện đại và tư duy nhân văn sâu sắc của Nguyễn Bình Phương. Anh viết: “Ta sinh ra cô đơn. Giờ cô đơn đã cũ. Ta trưởng thành bởi sợ hãi. Sợ hãi cũng cũ rồi”. Hay nói về cuộc đời con người, anh có những câu thơ trĩu nặng tâm tư: “Số phận già như trời. Lọm khọm đi giữa công viên đầy nắng. Nắng có gì hay hớm nữa đâu”. Dường như nhà thơ muốn kìm nén mọi cảm xúc tuôn trào mà chỉ kể và vẽ lên những hình ảnh khắc sâu vào tâm trạng người đọc. Đúng như phong cách viết tiểu thuyết của anh. Nguyễn Bình Phương muốn dành cho người đọc bước vào ma trận hình họa mà hét lên và yêu ghét những gì trong thế giới hồn ma bóng quỷ của mình. Phải chăng, đó chính là mục đích văn học của Nguyễn Bình Phương.

Vĩ thanh

         Những thành công của Nguyễn Bình Phương đã thể hiện sự lao động nghiêm túc và hết sức coi trọng bạn đọc. Trong không ít cuốn sách anh đã đề ngày viết và ngày hoàn thành cách nhau chừng vài ba năm. Anh tâm sự thường một cuốn sách viết trong một năm thì phải sửa ít nhất hai năm mới hoàn thành theo ý mình. Khi đó mới cho xuất bản. Thậm chí có cuốn như “Kể xong rồi đi”, Nguyễn Bình Phương phải sửa đến lần thứ tư. Nhiều phần phải dỡ ra viết lại. Tác phẩm trong 4 năm mới tới tay bạn đọc. Anh cho tôi xem một số bản thảo viết tay khoảng đầu thập kỷ 90 mới thấy đáng nể trọng. Trang nào cũng chữa dầy đặc những nét mực xanh mực đỏ. Gần như chương đoạn nào đọc lên chưa sướng tai, không nhập hình trong liên tưởng là anh viết lại. Chữ của anh luôn tạo hình như thơ là vì vậy. Câu văn của Nguyễn Bình Phương cũng ngắn gọn như thơ chứ ít khi dùng nhiều mệnh đề. Hệt như những câu thơ cô đọng: “Hai đứa trẻ vò tai tôi sung sướng. Ngân nga ba đứa ba quả chuông” (Chơi với con).

        Chính vì thế trong “Mình và họ” nhà văn đã dành cho những câu đối thoại,  độc thoại tự bật ra tính cách nhân vật hay tình huống của câu chuyện trong chuyến xe lên, xe xuống. Bởi hồn ma đâu có nói dài mà buông vào cõi hư vô với những oán hờn, dận giữ và đau khổ vì tội ác. Tôi chợt nhớ đến những câu thơ thú vị đẫm chất văn xuôi mà ta đã gặp ở đâu đó trong bất kỳ tiểu thuyết nào của Nguyễn Bình Phương. Khi anh viết: “Họ nhổ nước bọt lên buồn đau, họ di chân vào hy vọng. Họ ăn nhẩn nha, nói nhẩn nha làm tình thì hối hả vì họ biết không ở đây được nữa” (Những cư dân vùng châu thổ sông Hồng”. Và đọng lại trong tôi những câu thơ đã hóa thạch của anh: “Trong thanh gươm đã có sẵn nụ cười. Trong những nụ cười vô vàn gươm sắc” (Tượng đá cầm gươm). Tôi đã hình dung Nguyễn Bình Phương chính là một thanh gươm.